[VOV2] Thứ sáu, 10:39, 03/10/2025 – Chương trình Tiếng Việt vui trên VOV2, các bạn trẻ thử thách chọn từ đúng: khuyến mãi hay khuyến mại, vãn cảnh chùa hay vãng cảnh chùa… TS. Phạm Văn Lam – Hội Ngôn ngữ học Việt Nam giải thích hiện tượng các từ gần giống nhau trong tiếng Việt.
Hiện nay, vẫn có nhiều người thường nhầm lẫn giữa hai khái niệm khuyến mại và khuyến mãi, hoặc cho rằng hai khái niệm này là một. Tuy nhiên, theo TS. Phạm Văn Lam, 2 từ này đề cập 2 khái niệm khác nhau.
Mại (卖): bán. Mãi (买): mua. Như vậy, nếu dùng đúng theo nghĩa gốc thì phải hiểu khuyến mại: “khuyến khích, thúc đẩy việc mua hàng, thường bằng cách hạ giá hoặc kèm theo quà tặng”; khuyến mãi: “khuyến khích, thúc đẩy việc bán hàng, bán hàng nhiều hơn”. Tuy nhiên, hiện nay người Việt thường hiểu khuyến mãi giống như khuyến mại với nghĩa “khuyến khích người tiêu dùng đẩy mạnh mua sắm, tiêu thụ hàng hóa, qua đó kích thích mở rộng thị trường bán lẻ, bán buôn và sản xuất”.
TS. Phạm Văn Lam giải thích rằng chuyện này xảy ra vì yếu tố mại trong tiếng Việt được sử dụng nhiều hơn, xuất hiện trong nhiều từ hơn, quen thuộc hơn: trường Thương mại, hoạt động thương mại, tư sản mại bản… (trong những cách nói này mại vẫn được hiểu theo đúng nghĩa gốc là bán). Yếu tố mãi không được sử dụng nhiều như mại. Do đó, khuyến mại nghe quen tai hơn. Trong thực tế, hiện nay nhiều từ điển, tài nguyên ngôn ngữ đã không còn phân biệt giữa nghĩa nghiêng về bán của khuyến mại, nghiêng về mua của khuyến mãi nữa. Họ đều có xu hướng hiểu và giải thích khuyến mại qua khuyến mãi với nghĩa “khuyến khích việc mua hàng”.
Tuy nhiên, quan sát thực tế, TS Phạm Văn Lam thấy rằng, hiện nay trong hoạt động kinh doanh, khuyến mại và khuyến mãi là hai chiến lược quan trọng, khác nhau về bản chất, hình thức, mục đích. Khuyến mại là hình thức “xúc tiến việc mua bán hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng, bằng các lợi ích nhất định”. Còn khuyến mãi là “đưa ra những lợi ích nhất định cho dành cho người bán (là các trung gian thương mại, đại lý, nhà phân phối) để xúc tiến việc bán hàng”. Như vậy, khuyến mại hay khuyến mãi đều là hoạt động tiếp thị và quảng cáo của thương hiệu giúp đẩy mạnh việc trao đổi và sử dụng hàng hóa / dịch vụ của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, khuyến mại và khuyến mãi khác nhau ở chỗ: Khuyến mại là hình thức kích thích khách hàng mua hàng thường được thể hiện dưới hình thức giảm giá theo số tiền hoặc tỉ lệ phần trăm, hoặc tặng kèm các quà tặng miễn phí. Mục đích của việc khuyến mại là tạo ra sự thu hút, hấp dẫn trong thời gian ngắn hạn để khách hàng mua sản phẩm / dịch vụ một cách nhanh chóng.
Khuyến mãi là hoạt động tác động đến người bán hàng trung gian (đại lí bán hàng, nhà phân phối, cửa hàng bán lẻ,…) nhằm nâng cao doanh số bán hàng. Người bán trung gian càng bán được nhiều sản phẩm/ dịch vụ thì càng nhận được nhiều quyền lợi từ nhà sản xuất.
Nói ngắn gọn, khuyến mại là “khuyến khích việc bán hàng, hướng đến khách hàng và người được hưởng là khách hàng”, còn khuyến mãi tức là “khuyến khích việc mua hàng, hướng đến người bán hàng trung gian và người được hưởng lợi chính là họ”. Khuyến mại giúp tăng doanh thu, kích cầu mua sắm của khách hàng làm giảm lượng hàng tồn kho. Khuyến mãi giúp giải phóng hàng tồn kho, gia tăng doanh số bán hàng của các đại lý, nhà phân phối. Theo Điều 88 luật Thương mại 2005 và Nghị định 81/2018/NĐ-CP, khuyến mại là việc thương nhân cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định nhằm khuyến khích người tiêu dùng mua và sử dụng hàng hóa, sản phẩm.
Như vậy, ở đây, sự khác biệt giữa khuyến mại và khuyến mãi không dừng lại ở chỗ chiết tự mại hay mãi là gì, mà nó đã được luật hoá, trở thành thuật ngữ khoa học. Muốn phân biệt sự khác biệt giữa chúng thì phải phân biệt như vậy, chứ không phải chiết tự để hiểu. Trong khoa học, nội hàm của khái niệm không được hiểu bằng con đường chiết tự, cho dù, chiết tự trong chừng mực nào đó, giúp ta hiểu được cấu tạo và phần nào đó nghĩa của từ.
Vãn cảnh hay vãng cảnh
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên có ghi nhận: Vãn cảnh là “đến để ngắm cảnh đẹp” như trong cách nói vãn cảnh chùa Hương. Vãn cảnh còn có một nghĩa nữa, nay ít sử dụng là “cảnh lúc về già”. Vãng: “đến thăm nơi nào đó” như trong đi vãng cảnh chùa Hương. Khách vãng chùa. Từ điển này không ghi nhận từ vãng cảnh.
Còn Đại từ điển tiếng Việt thì giải thích nghĩa vãng cảnh chính là vãn cảnh. Căn cứ vào cách giải thích này thì ta thấy nghĩa sử dụng hiện tại của vãn cảnh và vãng cảnh không khác nhau. Trong thực tế sử dụng, người ta không phân biệt. Thậm chí, trong phương ngữ Bắc, người ta thường nói vãn cảnh với nghĩa là “đến để ngắm cảnh” nhiều hơn là vãng cảnh.
Còn nếu truy nguyên thì vãn cảnh và vãng cảnh có sự khác biệt: Vãng trong vãng cảnh có nghĩa là “đi đến, qua lại” như trong khách vãng lai, thời quá vãng. Với cách hiểu này, vãng cảnh được hiểu là “đi đến để ngắm cảnh”.
Vãn có nghĩa “buổi chiều tối, lúc muộn”, sau có thêm nghĩa “lúc hết, lúc cuối, lúc về già”. Như vậy, bằng vào nghĩa này, thì vãn cảnh phải được hiểu là “cảnh chiều” hoặc “cảnh về già”; nhưng không mấy người hiểu và sử dụng như vậy.
Chính vì sự gần giống nhau giữa các từ dễ dẫn đến dùng sai nên một số người cho rằng chúng ta nên sử dụng những từ thuần Việt để khỏi phải nhầm lẫn. TS. Phạm Văn Lam cho rằng ý kiến này chưa hẳn đúng bởi đây là một cách lí giải trốn tránh hiện thực. Nếu sử dụng sai và hiểu sai thì cần phải điều chỉnh để sử dụng và hiểu cho đúng. Hơn nữa, từ thuần Việt và từ Hán Việt đều có giá trị riêng của nó. Giả dụ từ thuần Việt và từ Hán Việt có tương đương nhau ở một khía cạnh nào đó, thì chúng cũng không đồng nhất với nhau, không phải lúc nào cũng thay thế cho nhau được. Vãn cảnh cũng có thể được hiểu là ngắm cảnh, nhưng chúng không thay thế cho nhau được. Nét nghĩa “tập trung chú ý để nhìn, thoả lòng yêu thích…” chỉ có ở ngắm cảnh, không có ở vãn cảnh. Nét nghĩa “thư thái, trải nghiệm, thả hồn theo không gian tĩnh mịch, yên bình…” chỉ có ở vãn cảnh, không có ở ngắm cảnh. Trong các trường hợp nêu trên, không có từ tốt hơn để thay thế.
Cũng theo TS Phạm Văn Lam, yếu tố ngôn ngữ nào cũng đều có tính lịch sử – xã hội. Tính lịch sử thể hiện ở thời gian; tính xã hội thể hiện ở số đông. Ngôn ngữ không vận hành theo ý muốn cá nhân, mà nó vận hành theo quy ước chung của tập thể, có tính lịch sử. Việc sử dụng từ ngữ, đặt câu phải theo quy ước chung đó do quá khứ để lại, mà chúng ta chỉ chỉ là người tiếp nối, phát triển, chứ không phải là kẻ phá ngang, làm hỏng quy tắc vận hành của ngôn ngữ.
Theo vov.vn
Xem thêm: